Để làm thành công bài văn phân tích và cảm nhận vẻ đẹp của người phụ nữ qua chân dung trong tác phẩm Thương vợ của Tú Xương, em phải cẩn trọng trong cách lựa chọn hình ảnh cũng như nội dung của bài văn. Dưới đây là những bài văn mẫu ôn tập hay và độc đáo các em có thể dùng để ôn tập lại kiến thức và tìm cho mình những bài văn mẫu lớp 11 hay nhất. Mời các bạn xem: Các bạn có thể xem: Cảm nhận của em về hình ảnh bà Tú?
1. Cảm nghĩ về hình tượng bà Tú trong Thương Vợ
2. Phân tích hình tượng bà Tú trong Thương Vợ
3. Vẻ đẹp của đời người phụ nữ qua Mẹ Từ

Trong kho thơ phong phú, đa dạng của Trần Tế Xương, bài Thương vợ được đánh giá là một trong những bài thơ hay và ý nghĩa nhất. Đoạn thơ đã diễn tả một cách chân thực và xót xa tình cảm trân trọng, biết ơn của nhà thơ đối với sự mất mát, tận tụy, vất vả của người vợ. Ngoài ra, bài thơ dựng nên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao sang, quý phái.
Bạn xem: Thả thính đàn ông già ngoại tình
Người vợ truyền thống là người luôn vun vén, chăm lo cho cuộc sống của gia đình, đồng thời lo cho công việc và công danh của chồng. Bà Tú cũng vậy, nhưng cuộc đời bà không phải cảnh “cùng em đọc sách, cùng em quay tơ”. Vì cuộc sống cơ cực, khó khăn, anh phải lao mình vào guồng quay, bươn chải mua bán để mưu sinh:
“Cả năm làm ăn trên dòng sông mẹ
Nuôi năm đứa con với một chồng”
Hình ảnh bà Tú hiển hiện, nhưng không phải là hình dáng, dáng vẻ mà là công việc, vai trò của bà. “Cả năm” không chỉ có nghĩa là dài ra mà còn có nghĩa là thời gian vắng bóng, cuộc sống không trọn vẹn. Địa danh “sông mẹ” còn nói lên hoàn cảnh hiểm trở, chốn tạm bợ, tạm bợ. Trên vai là gánh nặng của cả gia đình nên bà Tú phải chống chọi với cuộc sống để có thể “gà trống nuôi năm con, một chồng”. Ý nghĩa của từ “nuôi nấng đầy đủ” thể hiện tấm lòng yêu thương và sự nhẫn nhịn khéo léo của ông. Cách nói “năm con một chồng” của nhà thơ thể hiện sự khiêm tốn, như con, ông giận dỗi nhận mình cũng là gánh nặng của vợ. Âm nhạc xưa vốn nổi tiếng với hình ảnh con cò, Tú Xương đã vận dụng rất tài tình ca dao trong hai câu thơ:
“Không nuốt nổi thân cò
Ép mặt nước về phía đông của con tàu”
Với hình ảnh “thân cò” tác giả đã thể hiện sự khiêm nhường và soi tỏ về tương lai của bà Tú. Nếu như “đồng đò” tả sự nguy hiểm của công việc thì “hông” tả thực sự hoang mang, khó khăn, vất vả trong công việc hàng ngày mà bà Tú phải chịu đựng. Không chỉ chịu thương, chịu khó, làm lụng vất vả suốt đời, bà Tú a Trần Tế Xương còn là người phụ nữ có trách nhiệm, biết hy sinh quên mình để làm phúc, làm lẽ cho đời. Hòa mình vào thiên nhiên con người, nhà thơ cắt nghĩa những điều thầm kín của người vợ đang nghĩ đến sự chấp nhận, cam chịu và chấp nhận hoàn cảnh, tương lai của mình:
“Nợ một, nợ hai, tai họa”
Hai mươi hai tuổi, ngươi có tâm nuôi người.”
Hình ảnh người đàn bà ngồi thẫn thờ, tần tảo, không nửa lời tủi thân, câu chuyện về nỗi khổ và lòng nhân hậu của Tú Xương đối với vợ dường như rất nặng nề, đau đớn. Khi các vấn đề và khó khăn chồng chất, sự cam chịu và hy sinh của ông trở nên rõ ràng. Hai câu thơ cuối là những cảm nhận và nhận thức của nhà văn về người vợ trước công lao vất vả mà chúng ta không thể chia sẻ, giúp đỡ:
“Cha mẹ sống một đời bạc
Có chồng hờ hay không”
Đoạn văn này diễn tả nỗi khổ tâm của nhà thơ với tấm lòng biết ơn chân thành, đồng thời bộc lộ sự bất lực trước tinh thần trí thức đang là gánh nặng trong gia đình.
Qua bài thơ Thương vợ của Tú Xương, chúng ta đã nghe rất rõ về hình ảnh người thiếu nữ mang những đức tính của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương, chịu khó, hy sinh nhiều và giàu lòng nhân ái. Bên cạnh đó, mỗi khổ thơ còn là tiếng nói cảm kích sâu sắc, day dứt không nguôi của nhà thơ trước những cực nhọc mà người phụ nữ vì mình mà phải chịu đựng.
Viết về văn hóa của người phụ nữ trong thế giới cổ đại, đã có rất nhiều bài thơ và bài thơ nói về sự căng thẳng và buồn bã trước những bi kịch và bi kịch của người con gái. Nhà thơ Trần Tế Xương cũng vậy, người phụ nữ trong các bài thơ của ông không ai khác chính là người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó của ông. Bằng những suy nghĩ chân thành và nhạy cảm, ông đã khắc họa hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ một cách chân thực và xúc động.
“Cả năm mẹ làm ăn trên sông Nuôi cả năm vợ chồng con Bơi vớt cò giữa nước, khi đò đầy”.
Hình ảnh người phụ nữ lam lũ vất vả mưu sinh nơi mẹ sông – nơi tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, thậm chí mất mạng bất cứ lúc nào – mang đến nhiều cảm xúc cho người đọc. Trong thời điểm khó khăn, thật khó để có được tiền. Tuy nhiên, bà Tú của Tế Xương vẫn phải “một chồng nuôi năm con”. “Đủ” không phải là đủ ăn và đủ mặc dù không giàu có, sang trọng nhưng cũng không thiếu thứ gì. Mặt khác, hai vế câu thơ “năm con một chồng” như một cái cây vô hình nhưng rất cao lớn đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ tội nghiệp. Nhưng anh không kêu ca hay phàn nàn. Anh đã bỏ công việc của mình và hy sinh với tất cả lòng tốt và tình yêu của mình. Tế Xương đã ví ông như “thân cò” – một hình ảnh rất đẹp, nhân văn và quen thuộc khi nói về những người nông dân cần cù lao động. Anh ra đi trong lúc em đi vắng, rồi “lạc trôi trên mặt nước mùa đông”. Ở hai câu thơ này, tác giả cố tình dùng từ đảo ngữ để đẩy hai từ “bơi lội” và “sầu muộn” lên đầu câu nhằm nhấn mạnh đức tính kiên trì, bền bỉ của bà Tú. Người phụ nữ ấy không chỉ yêu chồng mà còn rất sắc sảo, nhanh nhạy. Do đó, anh ấy có thể tự khẳng định mình là một doanh nhân trong suốt cả năm. Nhất là trong thời buổi khó khăn, ai cũng tranh giành từng xu nên bà Tú cũng phải bươn chải để có thể “gà trống nuôi năm con, một chồng”. , bao gồm bảy người của mình. Một mình anh nuôi cả bảy miệng ăn.
Nhưng dù khó khăn đến đâu, người phụ nữ luôn vững vàng và chịu đựng tất cả:
“Một mối duyên trời định, hai món nợ, một tương lai, năm nắng ngày mưa, dũng khí phụng dưỡng người, cha mẹ, thói quen sinh hoạt, có được nam nhân hay không cũng không quan tâm.”
Tương lai vay còn dài, cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả nhưng trong cả bài thơ không có một chữ nào diễn tả được tiếng khóc thương của bà Tú. Người phụ nữ đó có một trái tim lớn. Cô đã vì con mà hy sinh tất cả cho chồng, bỏ lại sau lưng tuổi trẻ đầy khát khao. Dù là “nhẹ” hay “mười mưa” đều có “người giám sát”. Anh sẵn sàng một mình gồng gánh cả gia đình. May mắn thay, vào thời điểm đó, mặc dù nhiều người phụ nữ khác đang làm việc trong vùng nước lũ và gặp khó khăn, nhưng chỉ có một số người tốt bụng và thương chồng như Ba Tu. Chỉ biết rằng ngoài tình yêu, Techang sẽ không làm bất cứ điều gì để giúp vợ. Vì vậy, cô tự nhận “Ở bên đàn ông là bất cẩn và không nên”. Cô không phải nói ra nhưng những gì cô làm được khiến chồng cô, Techang, ngưỡng mộ và tôn trọng cô.
Chị là đại diện tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam truyền thống với đức tính cần cù, tận tụy và giàu lòng yêu thương. Tuy nhiên, trong cuộc sống hôm nay, do bị nhiều thứ xô đẩy, tác động, một số người đã không còn giữ được những giá trị tốt đẹp, cao quý ấy. Họ sống trong danh lợi, tranh giành, đau khổ. Nhiều người đã chèn ép nhau, chèn ép nhau để tồn tại. Ai cũng vì lợi ích của mình mà quên đi sự tôn trọng tự nhiên tốt đẹp của con người. Chưa kể có những người phụ nữ lười biếng, thích ăn không ngồi rồi, thích vui chơi, thích ra lệnh cho người khác phục tùng mọi thứ mình muốn. Không nhiều người phải vất vả như bà Tú, cũng không có trái tim yêu thương, tận tụy.
Xem thêm: Giang Thị Kim Cúc Là Ai Được Khen, Khi Nghi Ngờ Làm Việc Trục Lợi?
Bài thơ khép lại với hình ảnh chân thực về người phụ nữ giàu đức hi sinh. Cô là tấm gương sáng cho phụ nữ ngày nay suy nghĩ về mình.